Thursday, March 21, 2013

CHƯƠNG TÁM / VIỆC KIỂM SOÁT CỦA TỔNG THỐNG ĐỐI VỚI CHIẾN TRANH BÍ MẬT:




THÁI ĐỘ HĂNG HÁI CỦA TT KENEDY VÀ SỰ BỐI RỐI CỦA TT JOHNSON

Khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, hồ sơ các điệp vụ bí mật của SOG và sự giám sát của Nhà Trắng đối với các điệp vụ đó bị vùi sâu trong hầm chứa của Lầu Năm Góc. Người ta không bao giờ định đưa chúng ra ánh sáng. Những con người dũng cảm vạch kế hoạch và thực hiện những hoạt động đó không được công chúng công nhận. SOG quá nhạy cảm về chính trị.

Rồi chiến tranh lạnh kết thúc. Dần dần, những câu chuyện về SOG xuất hiện. Một cựu nhân viên của SOG đã kể lại những hoạt động dũng cảm. John Plaster công tác ở SOG ba năm, trong đó có hai năm lãnh đạo các toán thám báo “vượt qua giới tuyến” sang Lào. Năm 1997, Plaster xuất bản một cuốn sách đáng chú ý về những con người đương đầu với quân đội miền Bắc trên đường mòn Hồ Chí Minh1. Cuối cùng, những thành tích của cựu chiến binh SOG, sự hy sinh và lòng dũng cảm của họ cũng như các chiến hữu đã nằm lại, được xuất hiện trước công chúng.

Sự ghi nhận này không bền lâu. Thậm chí SOG còn bị xuyên tạc trong một phóng sự của CNN về một điệp vụ tại Lào mang mật danh “Tailwind” - Đuôi gió. Phóng sự điều tra này được phát ngày 7-6-1998 và cáo buộc rằng trong một điệp vụ tuyệt mật của SOG nhằm tiêu diệt lính Mỹ đào ngũ ở Lào, hơi độc, chất Sarin, đã được thả xuống số nhân viên dân sự và quân sự của đối phương. Sau đó, bài phóng sự còn được hai tác giả April Oliver và Peter Arnett đăng trên tạp chí “Time”2.

CNN cho hay vào ngày 11-9-1970, một đơn vị của SOG gồm 16 lính Mỹ và 140 người Thượng đổ bộ xuống Lào để tấn công một “bản được coi là nơi trú ẩn của một nhóm binh sĩ Mỹ đào ngũ chạy sang đối phương”. Theo Oliver và Arnett, “nhiệm vụ của đơn vị này là tiêu diệt họ”. Trước khi tiến hành tấn công, một toán thám báo được cử đi trinh sát xem số đào ngũ có ở đó không. Toán này đã phát hiện “một số người Mỹ ở trong bản”3. Ngày hôm sau, cuộc tập kích bắt đầu và chỉ diễn ra “không quá mười phút”. Oliver và Arnett cho hay: “12, 15 hoặc có thể là 20” lính Mỹ đào ngũ bị giết, nhưng “không một xác chết nào được nhận dạng hoặc mang về” vì lực lượng của đối phương đang áp sát. Khi trận chiến trở nên ác liệt, “các toán thám báo được chỉ thị sử dụng mũ phòng độc. Sau đó là tiếng nổ của quả nổ chứa hơi độc”4. Theo CNN, “điều này mang lại kết quả ngay lập tức. Khi máy bay trực thăng cất cánh, một thành viên tham gia tập kích nhìn thấy “toàn là xác chết, ... họ không còn chiến đấu được nữa. Họ nằm la liệt, số nằm nghiêng, số nằm ngửa. Họ đã không còn là chiến binh nữa”5.

Sự cáo buộc, nếu đúng, sẽ biến những binh lính và phi công Mỹ, những người tham gia vào cuộc tập kích, trở thành tội phạm chiến tranh. Hơn nữa, như CNN lưu ý, hành động đặc biệt như vậy phải được Nhà Trắng cho phép trước khi thực hiện. “Mọi trường hợp sử dụng hơi độc phải có sự phê chuẩn của nhóm an ninh quốc gia của Nixơn”6. Điều đó có đúng sự thật không?

CNN tuyên bố bài phóng sự là quả bom tấn gây chấn động lớn và có những nhân vật tiếng tăm trong giới truyền thông Mỹ đứng đằng sau. Đối với nhiều người, câu chuyện thật đáng tin. Nhưng tin tức bắt đầu dần sáng tỏ. Các nhà báo khác bắt đầu phân tích kỹ bài phóng sự, đặt ra nghi ngờ về tính xác thực của lời cáo buộc và chỉ ra những sai sót hiển nhiên trong bài báo.

Tạp chí Newsweek - Tuần tin tức - nổ phát súng đầu tiên bằng việc nêu ra những nghi ngờ về tính xác thực của nhân chứng chính mà CNN đưa ra - một thành viên của điệp vụ “Tailwind”, người cung cấp phần lớn nội dung câu chuyện. Sau đó, nhân chứng này trở cờ, công khai phủ nhận rằng mình là nguồn tin cho những lời cáo buộc của CNN. Uy tín của CNN bị suy giảm nghiêm trọng khi tính xác thực của hai trong số các nhân chứng khác bị lật tẩy. Họ không hề tham gia vào điệp vụ đó.

Một nhân chứng chủ yếu khác của Oliver và Arnett là cựu Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, đô đốc Thomas Moore. Tin tức cho biết: ông đã “khẳng định có việc sử dụng Sarin trong hoạt động ở Lào và các điệp vụ giải cứu phi công bị bắn rơi trong chiến tranh Việt Nam”7. Tuy nhiên không có đoạn băng quay cảnh Moore đang nói như vậy. Arnett và Oliver giải thích rằng Moore “khẳng định có sử dụng Sarin nhưng không muốn bị ghi lại”8. Trong Newsweek và các báo chí khác, Moore kịch liệt bác bỏ tin trên. Các nguồn tin khác của CNN, kể cả viên đại uý lục quân chỉ huy cuộc tập kích, đều tố cáo bài phóng sự đã hiểu sai lệch lời nói của họ. Trong quá trình chuẩn bị, CNN cho biết đã phỏng vấn tất cả 200 nguồn tin. Sau chương trình phóng sự, một số người nói với phóng viên là họ chỉ khẳng định có sử dụng hơi cay chứ không phải hơi ngạt.

Sự mổ xẻ của báo chí đối với phóng sự gần như là cuộc giải phẫu pháp y. Sau đó, cuộc điều tra nội bộ của CNN do Floyd Abram, một luật sư được giới truyền thông rất tôn trọng, thực hiện đã bồi thêm đòn cuối cùng. Abram tuyên bố: “Luận điểm chính của phóng sự không đứng vững tại thời điểm phát sóng cũng như hiện nay”9.

Tuy nhiên, có một câu hỏi cần được nhấn mạnh nhưng đã bị bỏ qua trong quá trình xem xét trên, mà câu trả lời chỉ càng làm đậm thêm tính không tin cậy của toàn bộ phóng sự do CNN thực hiện. Liệu Nhà Trắng có chiều hướng cho phép SOG tiến hành điệp vụ ngầm nguy hiểm và dễ gây bùng nổ về chính trị như vậy không? Sự thật lịch sử chứa đựng trong các tài liệu giải mật của SOG cho thấy Nhà Trắng không có xu hướng đó. Sự giám sát của tổng thống đối với mọi hoạt động của SOG, bắt đầu từ 1964 và kéo dài trong suốt tám năm tồn tại của SOG, không phải đặc trưng bởi sự sẵn sàng chấp nhận mà là mong muốn tránh rủi ro. Phóng sự của CNN về điệp vụ “Tailwind” đã vẽ ra một bức tranh lộn ngược về thái độ của Nhà Trắng.



SỰ GIÁM SÁT CỦA NHÀ TRẮNG VỀ CHIẾN TRANH BÍ MẬT

SOG điều hành hoạt động bí mật lớn nhất của Hoa Kỳ trong thời chiến tranh lạnh. Tổ chức này thực hiện hàng loạt điệp vụ bí mật trong lòng miền Bắc Việt Nam và chống lại đường mòn Hồ Chí Minh ở Lào và Campuchia. Mỗi một hoạt động đều cần sự phê chuẩn của Nhà Trắng. Chiến tranh bí mật không phải là một hoạt động đơn độc và độc lập của CIA hoặc Lầu Năm Góc. Tổng thống Kenedy và tổng thống Johnson đều giám sát một cách sát sao nhưng với nguyên nhân rất khác nhau. Kenedy tích cực tìm cách sử dụng hoạt động ngầm để làm suy yếu và buộc Hà Nội phải ngừng thúc đẩy chiến tranh ở Việt Nam. Johnson có cách tiếp cận thận trọng hơn. Ông hạn chế chiến tranh bí mật vì e ngại có thể gây ra những đổ vỡ về chính trị nếu các hoạt động này bị phơi bày trước quốc tế. Do đó, không một việc gì SOG thực hiện mà Nhà Trắng lại không biết và tán thành. Sau khi đã được đề cập qua trong các chương trước, chương này phân tích tỷ mỷ phương pháp tiếp cận của Kenedy và Johnson.


Sự hăng hái của “Giới tuyến mới”

Trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 1960, ứng cử viên John F. Kenedy tuyên bố: “giới tuyến của nước Mỹ là ở sông Ranh, sông Mê Công, sông Tigris và sông Amazon. Chúng ta có trách nhiệm duy trì tự do cho toàn thế giới”10. Khi đã vào Nhà Trắng, Kenedy lo ngại rằng những đường biên giới mới đó đang có nguy cơ bị đẩy lùi bởi sự mở rộng của chủ nghĩa cộng sản và nhất là thông qua lật đổ du kích. Ông nhanh chóng nhận ra tình hình ở Mê Công đang xấu và Nam Việt Nam đang gặp phiền phức. Kenedy sẵn sàng trụ lại ông không có ý định để mất Việt Nam. Thay vào đó như Bobby Kenedy tuyên bố, “chúng ta sẽ giành thắng lợi ở Việt Nam”11. Để làm điều đó, những con người của đường biên giới mới kết luận rằng cần phải có học thuyết mới và phương pháp tiếp cận mới để đánh bại phong trào cộng sản.

Nhằm phát triển những khái niệm này, Kenedy tuyển chọn những người mà Halberstam mô tả là “những nhà tư duy và hành động thế hệ mới”. Những người này tin rằng “chúng ta phải ngăn cản chủ nghĩa độc tài và do điều duy nhất mà các nhà độc tài hiểu được là vũ lực, chúng ta phải sẵn sàng sử dụng sức mạnh”12. Tuy nhiên, họ bác bỏ phương pháp tiếp cận thông thường cũ kỹ vì cho đó không còn phù hợp với những mối đe doạ mới. Những gì cần thiết ở đây là tư duy sáng tạo và sức tưởng tượng, điều đó dẫn đến chiến lược chiến tranh đặc biệt và các biện pháp ngầm đặc biệt. Các quan chức cao cấp trong chính quyền mới, từ Kenedy trở đi, là những người ủng hộ mạnh mẽ những biện pháp mới này.

Walt Rostow, một trong số thuộc giới thân cận đó, nhớ lại trong những ngày đầu tiên của Kenedy ở Nhà Trắng, “bài phát biểu khuyến khích chiến tranh giải phóng dân tộc và cách mạng ở Đông Nam Á, châu Phi và Cu Ba của Khrushchev đã thu hút sự quan tâm của tổng thống về những thách thức mới này”. Rostow nhận xét những diễn biến trong chính sách của Kremlin “làm cho báo cáo của Lausdale trở nên rất quan trọng”. Khi được hỏi liệu Kenedy có ủng hộ mạnh mẽ việc khởi đầu hoạt động ngầm chống Hà Nội để đáp lại việc họ hỗ trợ Việt Cộng không, Rostow trả lời: “Có chứ. Vì cộng sản khuyến khích nổi dậy, tổng thống muốn làm tương tự để buộc Hà Nội vào thế phòng thủ”13.
_______________________________________
1. Plaster, “SOG cuộc chiến tranh biệt kích bí mật của Hoa Kỳ tại Việt Nam”
2, 3, 4. April Oliver và Peter Arnett “Hoa Kỳ có rải hơi ngạt không?”, Time, số ra ngày 15-6-1998, tr. 37-39, 38, 37, 39.
5, 6, 7. April Oliver và Peter Arnett, Sđd, tr. 38,37,39, 38-39
8. Robert Caldwell, “Câu chuyện đầy nghi ngờ của CNN về hơi ngạt và lính đào ngũ” Sandiego Times Union (ngày 21-6-1998), tr.G-1.
9. CNN đã mời luật sư Floyd Abrams tiến hành cuộc điều tra độc lập về phóng sự, kết luận của ông, được đưa lên mạng Internet, đã bác bỏ thẳng thừng nội dung phóng sự.
10. Lloyd C.Gardner “chịu bất kỳ giá nào: Lyndon Johnson và chiến tranh Việt Nam”, (Chicago: Ivan R.Dee, 1995), tr.32.
11. Lloyd C.Gardner “chịu bất kỳ giá nào: Lyndon Johnson và chiến tranh Việt Nam”, (Chicago: Van R.Dee, 1995), tr.66.
12. Halberstam, “Những người xuất sắc và thông minh nhất”, tr.43.
13. Phỏng vấn với Walt Rostow, ngày 2-4-1998, tr. 1.



kenshin_top
07-05-2008, 21:50
Trong giới thân cận của Kenedy, người cổ vũ hoạt động ngầm mạnh mẽ nhất là Bộ trưởng Tư pháp Robert Kenedy. Ông là thành viên của cả Uỷ ban 5412 (sau này là 303) và Nhóm đặc biệt chống bạo loạn, hai cơ quan bí mật của Hội đồng an ninh quốc gia được thành lập để chỉ đạo chính sách của Nhà Trắng về hoạt động chiến tranh đặc biệt. Việc Bộ trưởng Tư pháp tham gia vào các vấn đề này là điều hết sức lạ lùng. Bởi vì, cơ quan của ông chủ yếu xử lý các vấn đề pháp lý trong nước chứ không có nhiệm vụ chống du kích quân cộng sản và lật đổ những chính phủ ủng hộ họ. Brute Krulak còn nhớ mối quan tâm của Robert Kenedy về hành động ngầm và vai trò của ông trong quyết tâm sử dụng hành động đó làm công cụ của chính sách ngoại giao. Theo Krulak, “ông có ảnh hưởng rất lớn”.

Ảnh hưởng của Robert Kenedy thể hiện rõ trong việc ông hối thúc CIA xoá bỏ chế độ Castro sau sự kiện Vịnh Con lợn. Sau thất bại đó, chính quyền thành lập một tổ chức bí mật khác trong Hội đồng an ninh quốc gia mang tên Nhóm đặc biệt - SGA. Nhiệm vụ của nhóm là chỉ đạo giai đoạn tiếp theo của hoạt động chống Cu Ba mang mật danh “Mongoose”. Tổng thống chỉ định em trai làm Chủ tịch SGA với mục đích nhanh chóng đẩy mạnh hoạt động ngầm chống Castro. Khi kết quả không có gì khả quan, anh em Kenedy đều rất thất vọng.

Người phụ trách các hoạt động bí mật của CIA lúc bấy giờ là Richard Bissell bị triệu đến Nhà Trắng vào mùa thu 1961, và, theo Bissell, “bị khiển ngay trong phòng họp chính phủ bởi Tổng thống và Bộ trưởng Tư pháp vì lỗi ngồi ỳ và không chịu làm gì để gạt bỏ Castro”1. Trong hồi ký, Bissell tường thuật chi tiết cách thức anh em Kenedy yêu cầu CIA tăng cường hoạt động: “Anh em Kenedy muốn có hành động nhanh chóng. Robert Kenedy sẵn sàng tìm giải pháp ở mọi nơi... sự tham gia của ông vào việc tổ chức và chỉ đạo Mongoose sâu sát đến mức như ông là phó giám đốc chỉ đạo nghiệp vụ của CIA”2. Tương tự, Robert McNamara cũng xác nhận có “sức ép từ John Kenedy và Robert Kenedy đòi hỏi phải làm điều gì đó đối với Castro”3.

Theo Richard Helm, cựu giám đốc CIA, công cụ được chọn để loại bỏ Castro sau sự kiện Vịnh Con lợn là “hoạt động” ngầm4. Là đại diện của CIA tại Uỷ ban 5412 đầu những năm 1960. Helm thường gần gũi với anh em Kenedy. Ông nhớ lại “phải chịu áp lực hàng ngày từ Bobby Kenedy”5. Anh em nhà Kenedy “muốn có hoạt động ngầm chống Cu Ba, Việt Nam và những nơi khác và tìm cách nhanh chóng triển khai việc đó”6.

Trong những người thân cận của Kenedy, Bộ trưởng Quốc phòng McNamara là người ít có khả năng ủng hộ hoạt động ngầm nhất vì vị cựu Chủ tịch công ty Ford Motor ít hiểu biết về vấn đề này. Tuy nhiên, từ mùa hè 1962, đến .cuối 1964, McNamara là chất xúc tác thúc đẩy Lầu Năm Góc tiếp nhận và leo thang chiến tranh ngầm chống Hà Nội của CIA. Đến 1965, sự ủng hộ của McNamara bị suy giảm nhanh chóng do ông chuyển trọng tâm sang việc áp dụng chiến lược theo quy ước cho chiến tranh Việt Nam.

William Colby, người trực tiếp chỉ đạo hoạt động ngầm chống Hà Nội khi còn là trưởng trạm CIA ở Sài Gòn, nhớ rằng McNamara là người quyết đoán. Theo Colby, McNamara tin rằng CIA chỉ “ham chơi chứ chưa thực sự có hoạt động lớn quan trọng trong lòng miền Bắc đến mức có tác động”. Colby không quan tâm đến quy mô của chương trình CIA mà coi trọng tính chất của mục tiêu. Ông cho rằng Hà Nội là hạt đỗ quá cứng không thể nghiền được. Quan điểm này bị Bộ trưởng Quốc phòng bác bỏ: “Ông phản bác lập luận đó bằng quan điểm cho rằng CIA làm không đủ lớn”. Bộ Quốc phòng “có thể cung cấp thêm sức lực và làm cho hoạt động ngầm hiệu quả hơn”7.

Khi đã có quyết định chuyển giao chiến tranh ngầm cho Lầu Năm Góc, thái độ trên của McNamara dẫn đến việc thực hiện sớm kế hoạch 34A. Đó là những gì đại uý Murray trải qua trong năm 1964 khi trình các đề nghị hoạt động của SOG lên cho Bộ trưởng Quốc phòng phê duyệt. Murray trực tiếp mang những đề nghị đó vào văn phòng của McNamara. Khi nhớ lại giai đoạn này, Murray nhận xét rằng trong toàn bộ hệ thống chỉ huy, McNamara là “động lực chủ yếu. Tôi không tìm được ai khác ở Lầu Năm Góc là động lực đằng sau hoạt động này”. Khi được hỏi McNamara có phản đối đề nghị nào của SOG không, Murray khẳng định “không, ít nhất là theo tôi biết”8.

Những người thân cận khác của Kenedy như McGeorge Bundy và Walt Rostow cũng cổ vũ việc sử dụng hoạt động ngầm chống lại miền Bắc. Ngoài ra, theo William Sullivan, William Bundy cũng đóng vai trò quan trọng. Trong năm 1964, anh trai của George Bundy làm việc dưới trướng McNamara với chức vụ phó trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng về các vấn đề an ninh quốc tế. Sullivan khẳng định rằng Bill Bundy soạn thảo các công văn và điện về 34A cho McNamara. “Mặc dù các bức điện có chữ ký của McNamara”, Sullivan tin là “phần lớn số đó là do Bill Bundy khởi xướng và soạn thảo”9.

Với tất cả sức mạnh hỗ trợ việc đẩy mạnh hành động ngầm chống lại miền Bắc như trên, không có gì ngạc nhiên khi CIA tỏ ra bất lực, chính quyền Kenedy rất không hài lòng về công việc của cơ quan này. Các nhân viên CIA trực tiếp chỉ đạo hoạt động chống Hà Nội được Washington chỉ thị đẩy mạnh công việc. Ví dụ Tucker Gougelman, người phụ trách hoạt động ngầm trên biển trong chương trình hoạt động của CIA, được chỉ thị mở rộng tập kích phá hoại để “chuẩn bị cho việc thành lập hoạt động chống đối ở miền Bắc trong tương lai”10. Hay nói một cách khác, Gougelman được thông báo bước tiếp theo sẽ là gây dựng phong trào du kích bên trong miền Bắc. Bill Colby, lúc bấy giờ đang ở Sài Gòn, nhớ lại sức ép từ Nhà Trắng: “Họ hy vọng muốn làm điều gì đó một cách nhanh chóng để cân bằng với những vấn đề chúng ta đang chịu đựng ở miền Nam”11.

Thất bại của CIA trong việc tạo ra hiệu quả dẫn đến việc chính quyền tìm phương tiện thực hiện khác thay thế. Lầu Năm Góc là ứng cử viên duy nhất. Theo hồ sơ, có ba yếu tố dẫn đến quyết định chuyển giao hoạt động ngầm cho quân đội. Yếu tố thứ nhất liên quan đến sự cam kết “ngăn chặn sự thống trị của cộng sản ở Nam Việt Nam và mở rộng cường độ các hành động liên minh” của Kenedy. Vào năm 1963, tình hình ở Nam Việt Nam đã đạt đến đỉnh điểm của một cuộc khủng khoảng. Cần phải áp dụng các biện pháp mới - dưới dạng hoạt động tăng cường - để ngăn chặn cuộc khủng hoảng đó. Các biện pháp đó bao gồm “những hoạt động bán quân sự ngầm chống Bắc Việt Nam”12.

Lý do thứ hai dẫn đến việc giao nhiệm vụ trên cho Lầu Năm Góc là việc “cần có nỗ lực chung ăn khớp chống Hà Nội trong lĩnh vực hoạt động bán quân sự bí mật”13. Nhà Trắng kết luận rằng việc này nằm ngoài khả năng của CIA. Chỉ có quân đội, với hiểu biết về chiến tranh đặc biệt, có thể đẩy mạnh hoạt động đến mức có thể kiềm chế được Hà Nội.

Lý do thứ ba, liên quan trực tiếp đến lý do thứ hai, nhấn mạnh sự khó chịu ngày càng tăng của chính quyền đối với “tính tương đối kém hiệu quả của chương trình chống Hà Nội của CIA”14. Cơ quan tình báo đã không hoàn thành nhiệm vụ. Tuy nhiên, ngay trong việc thực hiện kém cỏi đó của CIA, có hy vọng le lói có thể thành hiện thực nếu hoạt động ngầm được mở rộng. Mặc dù chỉ trích CIA vì không làm được gì mấy, Nhà Trắng nhận thấy trong báo cáo hoạt động của CIA, “Bắc Việt Nam rất chú ý đến các hoạt động đó”. Vì vậy họ đã “thành lập hệ thống báo động quốc gia”. Rõ ràng, Hà Nội lo ngại các hoạt động vụn vặt của CIA có thể dẫn đến nguy cơ “hình thành nhóm du kích quân được dân chúng miền Bắc ủng hộ”. Điều này có thể dẫn đến việc “nổ ra cuộc nổi dậy”15. Đây là căn cứ để Nhà Trắng xác định hoạt động ngầm đã đi đúng hướng. Hà Nội đang lo lắng về các mối đe doạ đó, ngay cả khi nó còn rất yếu ớt. Theo quan điểm của chính quyền đây là điểm cần khai thác và đẩy mạnh việc thực hiện.
_______________________________________
1. Quốc hội Hoa Kỳ, Uỷ ban nghiên cứu hoạt động chính phủ trong hoạt động tình báo của Thượng viện, “Các âm mưu ám sát liên quan tới lãnh đạo nước ngoài”, (Washington DC, Nhà in chính phủ, 1975), tr 334.
2. Richard Bissell; Hồi tưởng về một chiến binh”, (New Haven, Conn. Yale Univvesity Press, 1996), tr.201.
3, 4, 5. “Các âm mưu ám sát liên quan tới lãnh đạo nước ngoài, tr.334.
6. Phỏng vấn Richard, ngày 6-6-1997.
7. Phỏng vấn lịch sử với William Colby trong “MACVSOG; Phỏng vấn lịch sử với những sĩ quan phục vụ trong OP34 của SOG” tr.9 -11.
8. Phỏng vấn với đại úy William Murray, tr.21, 24.
9. Phỏng vấn với đại sứ William Sullivan ngày 27-9-1997, tr.5.
10. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, “Nghiên cứu tài liệu của MACVSOG” phụ lục C, phần hoạt động trên biển”, tr. 1.
11. Phỏng vấn lịch sử với William Colby, trong “MACV SOG: phỏng vấn lịch sử với sĩ quan từng phục vụ trong OP34 của SOG”.
12, 13, 14. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, “Nghiên cứu tài liệu của MACVSOG”, Phụ lục B, phần “Nhóm nghiên cứu và quan sát của Bộ chỉ huy viện trợ quân sự và Tổng nha kỹ thuật chiến lược: hình thành, tổ chức và phát triển”, tr. 88.
15. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, Sđd, tr.64 - 65



kenshin_top
07-05-2008, 21:50
Ảo tưởng của chính quyền Kenedy

Khi đã quyết định chuyển giao nhiệm vụ cho Lầu Năm Góc, chính quyền Kenedy không nhượng bộ bất kỳ một sức ép nào từ giới tướng lĩnh nhằm đá lại quả bóng cho CIA. Mỗi khi Maxell Taylor, Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân có ý định đó, mọi cố gắng của ông đều bị ngăn chặn. McNamara đã nhận nhiệm vụ và trù tính sẽ triển khai thực hiện. Nếu Nhà Trắng đang vội vã thúc đẩy chiến tranh bí mật, Bộ trưởng Quốc phòng McNamara cũng vậy.

Sự cam kết của McNamara đối với chương trình chiến tranh đặc biệt của Kenedy là lý do chủ đạo dẫn đến việc ông ủng hộ quyết định chuyển giao hoạt động ngầm cho Lầu Năm Góc, mặc dù phải đối mặt với sự phản kháng của Hội đồng tham mưu trưởng. Walt Rostow ghi nhận: McNamara “hậu thuẫn mạnh mẽ tổng thống, người muốn chuyển hoạt động ngầm chống Bắc Việt Nam ra khỏi CIA”1. Richard Helm cũng đưa ra lời giải thích tương tự: “Sự nhiệt tình của McNamara phản ánh thái độ của John và Bobby Kenedy. Nếu họ ủng hộ, Menamara cũng vậy”2.

McNamara xây dựng quan hệ cá nhân với anh em Kenedy, như ông đã kể lại trong cuốn sách về Việt Nam xuất bản năm 1995. Tuy nhiên, vào năm 1961, McNamara vừa được bổ nhiệm làm Chủ tịch công ty Ford Motor và không có quan hệ gì với tổng thống vừa đắc cử. Đột nhiên, một hôm Bobby Kenedy gọi điện thoại cho McNamara: “Tổng thống đắc cử rất vui nếu anh có thể gặp em rể chúng tôi Sargent Shriver”. McNamara nhận lời và cuộc gặp được thu xếp vào buổi chiều cùng ngày. McNamara sửng sốt khi nghe Shriver nói: “Tôi được uỷ quyền để nói với anh rằng Jack Kenedy muốn anh giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng”. McNamara đáp. “Điều này thật vô lý... Tôi không đủ năng lực”3. Hai tuần sau McNamara nhận lời.

Tại sao Kenedy lại chọn một người không có kinh nghiệm thực sự về các vấn đề an ninh quốc gia? Theo McNamara giải thích, ông được người khác giới thiệu: “Tôi biết có hai người có vai trò chủ yếu: Bob Lovett, người biết tiếng tăm của tôi tại Ford và công việc của tôi trong quân đội trong chiến tranh thế giới thứ hai và John Keneth Galbraith, một nhà kinh tế học theo trường phái tự do ở Harvard”. cả hai cho rằng tổng thống đắc cử cần một Bộ trưởng Quốc phòng là “doanh nghiệp với những tư tưởng sáng tạo”4. Hiển nhiên là, những người giới thiệu McNamara cho Kenedy tin là Lầu Năm Góc cần một vị giám đốc điều hành doanh nghiệp cao cấp chứ không phải là một nhà tư duy chiến lược sáng tạo. Mặc dù không phải người thuộc giới thân cận của Kenedy từ ban đầu, McNamara trở thành người được anh em nhà Kenedy ưa thích.

Theo Roger Hilman, người được Kenedy bổ nhiệm làm trợ lý ngoại trưởng phụ trách các vấn đề Viễn Đông năm 1963, lý do thứ hai dẫn đến việc Kenedy ủng hộ chiến tranh bí mật chính là phương pháp quản lý của ông. Hilsman giải thích: “McNamara muốn tự mình kiểm soát mọi thứ và cố gạt những người khác ở Washington ra”5. Hilsman chỉ ra: “giới báo chí thường cáo buộc McNamara là khao khát quyền lực và độc đoán. Là Bộ trưởng Quốc phòng, ông có dịp bộc lộ những điều đó... McNamara sắc sảo, quyết đoán, và tự tin”6.

Nhận xét của Hilsman giúp làm sáng tỏ vai trò của McNamara trong quyết định năm 1963 chuyển giao hoạt động ngầm chống miền Bắc từ CIA sang Lầu Năm Góc. Phong thái quản lý của McNamara tại Lầu Năm Góc gần giống như chế độ một người lãnh đạo và điều này làm ông luôn bất hoà với Hội đồng tham mưu trưởng. Trong tám năm làm Bộ trưởng Quốc phòng, McNamara chưa bao giờ ngần ngại bác bỏ quan điểm của Hội đồng tham mưu trưởng liên quân về các vấn đề quân sự thuần tuý. Những người bất đồng với ông mà tìm cách kêu lên Nhà Trắng hoặc Quốc hội thường thua khi tranh luận và buộc phải nghỉ hưu.

Do đó, không có gì ngạc nhiên khi McNamara qua mặt giới tướng lĩnh trong hoạt động ngầm chống Hà Nội. Ông nghĩ mình biết nhiều hơn là các tham mưu trưởng. Sự phản đối mãnh liệt của Hội đồng tham mưu trưởng liên quân đối với chương trình chiến tranh đặc biệt của Kenedy cũng chẳng ăn thua gì. McNamara đang lãnh đạo Lầu Năm Góc còn Hội đồng tham mưu trưởng liên quân thì ngày càng thấy bị gạt ra khỏi quyết định mà mình phản đối. Đối với chiến tranh bí mật, Rostow mô tả như sau: “Vào năm 1963, McNamara đã tăng cường quyền lực và cho rằng mình sẽ làm tốt hơn CIA”7.

Trên thực tế, hai lý do trên đây đã dẫn McNamara đến chỗ cổ vũ cho một chính sách mà mình ít hiểu biết. Ông chỉ đạo Lầu Năm Góc tiếp nhận và gia tăng chiến tranh bí mật chống Bắc Việt Nam đồng thời phải làm ngay sau một đêm!

McNamara không phải là người duy nhất thiếu hiểu biết về hành động ngầm. Số người có thái độ nhiệt tình về chiến tranh đặc biệt trong chính quyền Kenedy nhìn chung không hiểu biết về tính phức tạp trong việc thực hiện hoạt động ngầm chống địa bàn bị từ chối. Krulak tin là “những người nhiệt tình đó... nhiệt tình bởi vì họ nghĩ đó là cách đơn giản và rẻ tiền để gây sức ép với Hà Nội”8. Mặc dù Bắc Việt Nam dễ bị tổn thương, khai thác những điểm yếu đó không phải chuyện dễ dàng và có thể làm được trong chốc lát. Không có căn cứ gì cho thấy những người thúc đẩy chính sách này trong chính quyền Kenedy hiểu được thực tế đó.

Hilsman nói thẳng: “Họ không hiểu. Họ không có lý do gì để tin là chúng ta có thể thực hiện ở Bắc Việt Nam những gì họ đang làm ở Nam Việt Nam. Tôi không tin là các thành viên của Uỷ ban 303 có hiểu biết sâu sắc về vấn đề này”9.

Helm còn thẳng thắn hơn: “có sự nhiệt tình lớn về hoạt động ngầm đồng thời cũng có sự thiếu hiểu biết lớn về việc các hoạt động đó và tính phức tạp khi thực hiện chúng”10.

Tương tự như vậy, Kenedy và các cố vấn thân cận dường như không nắm được sự thiếu năng lực của Lầu Năm Góc trong việc phát động hoạt động ngầm. Vì lực lượng đặc biệt đang được mở rộng, họ giả định là các phương tiện đề tăng cường hoạt động ngầm ra Bắc đã sẵn sàng. Tuy nhiên, sự thực lại không phải như vậy, nhất là năng lực thành lập và chỉ đạo mạng lưới gián điệp và tiến hành chiến tranh tâm lý. Ở cương vị của mình, Brute Krulak nhìn thấy rõ những khoảng cách này trong năng lực quân đội. Krulak tin rằng chỉ đạo mạng lưới gián điệp và điều phối những hoạt động chiến tranh tâm lý là nằm ngoài khả năng của Lầu Năm Góc. Thậm chí, kết luận này còn đúng với lực lượng đặc biệt, mà “chức năng chủ yếu... là nhảy dù vào một nước, nơi đã sẵn có tổ chức bạn bè, và giúp đỡ họ một chút... Hoạt động gián điệp tương thích với CIA nhiều hơn”11.

Vào cuối mùa thu 1963, động lực mà Nhà Trắng tạo ra đã đạt đỉnh cao và tạo đà cho việc duy trì hoạt động ngầm ngay cả sau khi Kenedy bị ám sát. Tuy nhiên, khi Johnson nghiên cứu kỹ nội dung kế hoạch 34A và khả năng tác động của kế hoạch này đối với chiến dịch tranh cử tổng thống năm 1964 và chương trình chính trị trong nước, ông nhanh chóng giảm bớt nỗ lực đẩy mạnh chiến tranh bí mật và chọn phương án thận trọng hơn.
___________________________________________
1. Phỏng vấn với W.W. Rostow, tr.2.
2. Ghi chép của tác giả trong buổi phỏng vấn Richard Helms (6-6-1997 ).
3, 4. McNamara. “Hồi tưởng- Bi kịch và bài học của Việt Nam”, tr.14.
5. Thư của Roger Hilsman (1-8-1997), tr. 1.
6. Roger Hilsman, “Để lay chuyển một dân tộc” (New York: Della Books, 1967), tr.44.
7. Phỏng vấn với W.W. Rostow, tr.2.
8. Phỏng vấn với thiếu tướng Victor Krulak, tr.1.
9. Thư từ của Hilsman, tr.2.
10. Ghi chép của tác giả trong buổi phỏng vấn Richard Helms. (6-6-1997).
11. Phỏng vấn tướng Victor Krulak, tr.5.



kenshin_top
07-05-2008, 21:50
Tổng thống Johnson tiếp nhận: sự bối rối xuất hiện.

Ngày 22 tháng 11 năm 1963, vào khoảng 2h40 chiều, Lyndon Baines Johnson trở thành tổng thống Hoa Kỳ. Trong hồi ký, Johnson nhắc lại sự choáng ngợp mà ông phải đối mặt ngày hôm đó: “tôi bị kéo vào một công việc khó khăn nhất mà một người phải đảm đương và không hề được chuẩn bị trước. Công việc không thể chờ đợi một tuần, hay một ngày, hoặc thậm chí một giờ”1. Điều này đúng với tình hình ở Nam Việt Nam hiện đang vật vã sau khi Diệm bị ám sát.

Hai ngày sau, ngày 24-11, Johnson được biết sự thật trần trụi về thất bại chiến tranh của Mỹ. Chính phủ Nam Việt Nam ở trong tình trạng hỗn loạn - gần như vô chính phủ - và Việt Cộng, với sự chỉ đạo và hậu thuẫn của Hà Nội - đang sáp lại gần. Đó là những điều Johnson nghe tại buổi báo cáo tình hình Việt Nam đầu tiên. Tin tức được McNamara, Rusk, Mac Bundy, McCone và Lodge trực tiếp trình bày. Sau buổi thuyết trình, Johnson nói với trợ lý riêng, Bill Moyers: “Lodge nói rằng mọi thứ ở đó đang đi xuống địa ngục... Nếu chúng ta không hành động... thì điều đó sẽ xảy ra bất cứ lúc nào”2.

Trong vòng vài tuần, Johnson đối mặt với quyết định đầu tiên trong hàng loạt quyết định liên quan đến nhu cầu phải có hành động ở Việt Nam. Ông đang tiến đến ngã ba đường. Việc thực hiện kế hoạch 34A xuất hiện trong chương trình nghị sự. Với sự hậu thuẫn của McNamara, Mac Bundy và các cố vấn cao cấp khác, sau ba năm ấp ủ, 34A đã sẵn sàng hành động. Vấn đề đối với Johnson không phải có thực hiện hay không mà là đến mức độ nào. Ông biết đó là một kế hoạch tham vọng có nhiều hoạt động rủi ro cao và những quyết định khó khăn. Nên lựa chọn hoạt động nào “trong số 72 loại hoạt động... với tổng số 2.062 điệp vụ riêng lẻ” của 34A?3.

Trong buổi thuyết trình ngày 24-11, có tin Johnson nói rằng “tôi sẽ không để mất Việt Nam... tôi sẽ không là tổng thống chứng kiến Đông Nam Á ra đi như từng xảy ra với Trung Quốc”4. Đó là thái độ cứng cỏi đặc trưng của các chính trị gia Texas. Tuy nhiên, mọi việc không phải đơn giản như vậy. Các quyết định của Johnson về Việt Nam không chỉ xuất phát từ quyết tâm giành chiến thắng mà còn trở thành con tin của chương trình nghị sự trong nước, đặc biệt là chương trình Đại xã hội - nhãn hiệu mà chính Johnson gắn cho ý tưởng của mình trong bài diễn văn của mình năm 1964. Kể từ khi được bầu vào quốc hội năm 1936, mối quan tâm chính trị của ông tập trung nhiều vào các vấn đề trong nước chứ không phải vấn đề đối ngoại. Johnson tự cho mình có trách nhiệm tiếp tục thực hiện những ý tưởng của “thoả thuận mới” - “New Deal” vào nửa cuối thế kỷ hai mươi, tiếp bước thần tượng chính trị của ông, Flanklin Roosevelt. “Đại xã hội” của Johnson là sự mở rộng của những gì Roosevelt đã công bố: giảm đói nghèo, mở rộng giáo dục, y tế, nhà cửa và quyền bầu cử5. Nhưng ngay từ đầu, Johnson đã nhận ra rằng tham gia vào cuộc chiến tranh lớn có thể xói mòn tiến bộ của “Đại xã hội”, và việc bị đặt vào vị thế này đã hạn chế các giải pháp về Việt Nam mà ông có thể lựa chọn.

Johnson rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan - một mặt, nếu để mất Việt Nam ông sẽ bị chụp mũ quá nhượng bộ cộng sản - không một tổng thống của Đảng Dân chủ nào có thể tồn tại được với chiếc mũ đó. Ông nhớ lại lúc cộng sản giải phóng Trung Quốc, Herry Truman bị mất quyền lực và sau đó bị McCarthy săn đuổi. Mặt khác, nếu tỏ ra quá mạnh tay ở Việt Nam, những người thuộc phe bảo thủ trong quốc hội sẽ lợi dụng chi phí cho chiến tranh để cắt ngân sách dành cho chương trình “Đại xã hội”. Trước đây, cuộc chiến tranh thế giới lần hai đã làm đình trệ “Thoả thuận mới”6.

Johnson quyết định có bước đi thận trọng, không tiến quá xa và hạn chế sự can thiệp của Mỹ để không cho cuộc chiến tranh làm đổ vỡ chương trình nghị sự trong nước. Làm thế nào để vừa kiểm soát tình hình ở Việt Nam, đồng thời vừa thông qua được luật về “Đại xã hội” tại quốc hội? Giải pháp “Phản ứng tăng dần” được McNamara và các nhà chiến lược dân sự tại Lầu Năm Góc đề xuất. Họ có những tư tưởng mới về cách hạn chế chiến tranh nhưng vẫn thắng thế.

Vào cuối năm 1963, mâu thuẫn giữa Việt Nam và các ưu tiên chính sách trong nước bắt đầu nổi lên. Cuộc bầu cử tổng thống 1964 đã cận kề. Trong chiến dịch tranh cử, Johnson dành nhiều thời gian để khắc hoạ mình là người cứng rắn nhưng thận trọng trong các vấn đề quân sự, tương phản với Barry Goldwater, người ông mô tả là cuồng tín. Quyết định về 34A được đưa ra trong bối cảnh chính trị này.

McNamara nhớ lại, thoạt đầu tổng thống “mong muốn chương trình ngầm được tăng cường. Tương tự như Kenedy, Johnson cho rằng chương trình bé nhỏ của CIA là không hiệu quả và “tìm cách làm đau Hà Nội mà không dùng hành động quân sự trực tiếp”7. Mở rộng chiến tranh bí mật là câu trả lời, đúng như chính sách đã được vạch ra tại Hội nghị Honolulu ngày 20-11 được triệu tập để đánh giá tình hình Việt Nam và tìm ra giải pháp mới. Tại Honolulu, McNamara đã thúc đẩy việc thực hiện kế hoạch 34A. Theo tài liệu đã giải mật, McNamara công khai chỉ trích hoạt động của cơ quan tình báo chống Hà Nội: “chương trình CIA cho đến nay và trong một tương lai gần tỏ ra không mang lại kết quả mong muốn... Một chương trình thực sự hiệu quả phải có sự tham gia của các nguồn lực quân đội”8. Nhìn lại cuộc họp này, McNamara thừa nhận có “ủng hộ việc Lầu Năm Góc tiếp nhận” hoạt động ngầm chống Hà Nội nhưng cho rằng ông “không phải là người cổ động nhiệt tình vào lúc bấy giờ. Hoạt động ngầm là một trong số ít lựa chọn để giúp Nam Việt Nam”9. Hồ sơ ở giai đoạn này cho thấy vai trò của McNamara trong vấn đề này không phải là sự phục tùng thuần túy.

Sau hội nghị Honolulu, McNamara tập trung vào ý định của Washington giao cho Lầu Năm Góc tiếp nhận và đẩy mạnh chiến tranh bí mật, thể hiện rõ qua các biện pháp mà ông đưa ra để đảm bảo mọi nguồn lực cho 34A. Đầu tháng 12, ông “chỉ thị thu xếp ngay lập tức phương tiện và nhân sự và Bộ Quốc phòng sẽ trả chi phí. McNamara muốn tạo ra trạng thái sẵn sàng chiến đấu tối đa bất kể kế hoạch 34A có được phê duyệt hay không và yêu cầu nhân sự và thiết bị được đưa đến Sài Gòn theo tuyến ưu tiên”10.

Những khuyến nghị của Hội nghị Honolulu được đưa vào chỉ thị 273 của Hội đồng an ninh quốc gia, vạch ra định hướng ban đầu về chính sách Việt Nam của chính quyền Johnson. Johnson ký chỉ thị ngày 26-11. Theo Mac Bundy, việc bổ sung những kết luận tại Honolulu vào chỉ thị 273 đã mở rộng hơn các động thái chính sách so với dự thảo ban đầu. Bundy nhớ lại đó là kết quả của “ý kiến chỉ thị của Johnson đưa ra ngày chủ nhật 24-11”11.

Chỉ thị 273 bật đèn xanh cho việc thực hiện đầy đủ 34A. Chỉ thị này làm gia tăng đáng kể chiến tranh bí mật chống Bắc Việt Nam và đặt Johnson vào con đường mà Kenedy đã vạch ra. Nhưng không phải chỉ có vậy.

Chỉ thị 273 còn xem xét vấn đề Lào. Những người soạn thảo 34A khá quan tâm tới đường mòn Hồ Chí Minh. Họ tin là các hoạt động bán quân sự ở Lào cần được đưa vào kế hoạch. Điều tám của chỉ thị 273 phát tín hiệu đồng ý cho phép Lầu Năm Góc được tiến hành hoạt động ở Lào. Chỉ thị viết: “Cần xây dựng và đệ trình kế hoạch hoạt động quân sự trong phạm vi 50 km bên trong Lào lên cấp cao hơn phê duyệt”. Ngầm thừa nhận rằng hoạt động đó vi phạm Hiệp định Genevơ 1962, chỉ thị viết tiếp: “Ngoài ra, cần có kế hoạch chính trị để giảm thiểu tác động quốc tế tiêu cực có thể xảy ra. Trách nhiệm về các hoạt động đó cần được chuyển từ CIA cho MACV”12.

Như vậy, các khuyến nghị chính sách mà Johnson nhận được từ cuối tháng 11 và đầu tháng 12 đều kêu gọi gia tăng chiến tranh bí mật. Những hạt giống mà Kenedy gieo từ năm 1961 đã nảy mầm, thể hiện ở việc Johnson nghiêng theo chiều hướng gia tăng sức ép đối với Hà Nội qua việc phê duyệt chỉ thị 273. Tuy nhiên, vào tháng 12, Johnson bắt đầu dao động. Ông nhận ra là việc đó có thể đi ngược lại chương trình nghị sự trong nước và nguyện vọng của tổng thống. McNamara cho là “sự dao động này phản ánh tính thận trọng chung về Việt Nam của Johnson. Johnson muốn tránh những điệp vụ quá mạo hiểm” và, khi tổng thống tập trung vào 34A, “thận trọng trở thành tư tưởng chủ đạo. Tránh rủi ro cao”13.
_____________________________________________
1. Lyndon Baines Johnson, “Điểm tiên phong”, (New York: Holt, Rinehart and Wrston, 1971), tr.12.
2. Bill Moyer, “Lời dẫn”, Tuần tin tức, số 10-2-1975.
3. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, “Nghiên cứu tài liệu về MACVSOG”, Phụ lục B, phần “nhóm nghiên cứu và quan sát của Bộ chỉ huy viện trợ quân sự và Tổng nha kỹ thuật chiến lược: hình thành, tổ chức và phát triển tr.111.
4. Newman, “JFK và Việt Nam”, tr.442.
5. Deborah Shapley: “Lời hứa và Quyền lực”, (Boston: Lihle Brown, 1993), tr.281.
6. Về vấn đề này xin xem Doris Kearns, “Lyndon Johnson và giấc mơ Mỹ”, (New York Harper and Row, 1976), chương 8-9.
7. McNamara: “Hồi tưởng: Bi kịch và bài học của Việt Nam”, tr.103.
8. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, “Nghiên cứu tài liệu của MACVSOG”, Phụ lục B, phần “nhóm nghiên cứu và quan sát của Bộ chỉ huy viện trợ quân sự và Tổng nha kỹ thuật chiến lược: hình thành, tổ chức và phát triển”, tr.111.
9. Ghi chép của tác giả trong buổi phỏng vấn McNamara qua điện thoại ngày 30-6-1998.
10. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, “Nghiên cứu tài liệu của MACVSOG” phụ lục B, phần “nhóm nghiên cứu và quan sát của Bộ chỉ huy viện trợ quân sự và Tổng nha kỹ thuật chiến lược: hình thành, tổ chức và phát triển”, tr. 153.
11. Newman, JFK và Việt Nam, tr.448.
12. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, “Nghiên cứu tài liệu của MACVSOG”, Phụ lục B, phần “Nhóm nghiên cứu và quan sát của Bộ chỉ huy viện trợ quân sự và Tổng nha kỹ thuật chiến lược: hình thành, tổ chức và phát triển”, tr.21.
13. Ghi chép của tác giả trong cuộc phỏng vấn McNamara, 30-6-1998.



kenshin_top
07-05-2008, 21:50
Ngày 21-12, McNamara và Giám đốc CIA John McCone gặp Johnson để xem xét 34A. Đó là cuộc họp cực kỳ quan trọng, trong đó sự bảo thủ và rụt rè chính trị của tổng thống về hoạt động ngầm bộc lộ rõ. Trong cuộc họp, tổng thống quyết định chỉ chọn những hoạt động “hứa hẹn mang lại kết quả lớn nhất với ít rủi ro nhất”1 từ 34A. Sau đó Johnson thành lập Uỷ ban Krulak để đánh giá lại 34A theo quan điểm này của tổng thống.

Uỷ ban Krulak làm đúng như vậy. Uỷ ban đã xem xét “toàn bộ các hoạt động có thể thực hiện chống Bắc Việt Nam... với tư tưởng chỉ đạo là đạt kết quả lớn nhất và rủi ro thấp nhất”. Rủi ro được đánh giá trên hai khía cạnh. Thứ nhất, uỷ ban xem xét mức độ “Bắc Việt Nam trả đũa thông qua việc đẩy mạnh hoạt động ở Nam Việt Nam”. Vì chế độ Sài Gòn đang rệu rã, việc đó có thể làm cho chế độ sụp đổ “trừ khi Hoa Kỳ can thiệp trực tiếp” . Đó chính là khả năng mà Johnson không thể chấp nhận trong năm bầu cử 1964. Uỷ ban Krulak ý thức rõ điều này. Hai là, Uỷ ban đánh giá mức độ “phản ứng quốc tế” mà việc thực hiện các hoạt động trong 34A có thể gây ra2. Điều này cũng nên tránh trong cuộc tranh cử tổng thống sắp tới.

Uỷ ban Krulak đề xuất một phiên bản 34 mới được rút gọn rất nhiều. Trong đó, Uỷ ban khuyến nghị chỉ thực hiện 33 trong tổng số 72 dạng hoạt động nêu trong kế hoạch, đó là các dạng hoạt động thoả mãn tiêu chí “ít rủi ro” của Nhà Trắng. Uỷ ban không tán thành ý kiến liên quan đến hoạt động tại Lào nêu trong chỉ thị 273. Trong tháng 12, Harriman và người được ông bảo trợ ở Bộ Ngoại giao vận động ngăn cản không cho MACV được phép hoạt động chống phá đường mòn. Uỷ ban Krulak nhất trí với Harriman và lập luận “sự cân bằng quân sự và chính trị mong manh tại Lào có thể bị đảo lộn” nếu chỉ thị 273 được thực hiện3.

Tháng Giêng 1964, Johnson phê duyệt khuyến nghị của Uỷ ban Krulak. Đây là bước ngoặt cực kỳ quan trọng, sự hăng hái của chính quyền Kenedy đã nhường chỗ cho sự bối rối của chính quyền Johnson trong việc sử dụng hoạt động ngầm chống Hà Nội. Tuy nhiên, không hẳn nỗi lo sợ về năm bầu cử dẫn đến việc Johnson chấp nhận phương châm hành động thận trọng, mặc dù đó là một nguyên nhân cơ bản. Johnson còn bị tác động bởi những ý tưởng của các nhà chiến lược dân sự làm việc cho McNamara ở Lầu Năm Góc.

McNamara trở nên tin tưởng vào khái niệm tăng dần phản ứng - các nhà chiến lược dân sự, thường được giới quân sự gọi một cách nhạo báng là “lũ trẻ thần đồng” - thuyết phục McNamara rằng có những cách thức mới, khoa học hơn để sử dụng lực lượng. Theo đó, sức mạnh được sử dụng một cách hạn chế để buộc đối phương phải thay đổi cách cư xử cho phù hợp với lợi ích của Mỹ. Ý tưởng này được ca ngợi là tư duy sáng tạo cho phép sử dụng đầy đủ ưu thế quân sự của Mỹ. Nếu đối phương không nghe lời, sức ép sẽ gia tăng. Họ liên tưởng việc tăng dần vũ lực với các cuộc đàm phán và mặc cả chính trị.

Ý tưởng mới này được dựa trên tiền đề là nếu khởi đầu từ từ và sau đó tăng dần về quy mô và cường độ của sức ép quân sự đến mức cần thiết, đối phương sẽ sớm nhận ra bức thông điệp và nghe theo. Nếu không, sức ép tiếp tục gia tăng cho đến mức buộc đối phương phải tuân theo.

Johnson thích thú khái niệm trên vì giúp ông đạt được một lúc hai mục tiêu. Kìm giữ cộng sản ở Việt Nam và, thông qua tăng dần phản ứng, sẽ nung nóng Hà Nội đến mức chấp nhận đàm phán; và hay nhất là không để chiến tranh ngăn cản chương trình nghị sự - “Đại xã hội” - trong nước của tổng thống.

Tăng dần phản ứng thường được gắn với cách thức Johnson tiến hành chiến tranh Việt Nam sau khi trúng cử tổng thống. Tuy nhiên, khái niệm này cũng ảnh hưởng tới những quyết định liên quan đến việc thực hiện 34A và được phản ánh tại Uỷ ban Krulak, người khuyến nghị nên bắt đầu sự leo thang chiến tranh bí mật một cách hạn chế “để phát đi tín hiệu cho giới lãnh đạo Bắc Việt Nam về ý định tiếp tục thực hiện các hành động trả đũa gây tổn thất với quy mô tăng dần trừ phi và đến khi sự hỗ trợ của họ đối với chiến tranh ở miền Nam chấm đứt”4.

Johnson tìm thấy ở “giải pháp tăng dần” sự đảm bảo, nhưng liệu nó có thực tế không? McNamara có thực sự tin nó có hiệu quả không, khi ông coi đó là “một trong số ít sự lựa chọn để giúp Nam Việt Nam”?5 Hành động của McNamara phản bác những gì ông hồi tưởng về chiến tranh đặc biệt chống miền Bắc. Trong cuốn hồi ký 1995, ông viết một cách rõ ràng: “trước sự kiện tháng 8 (năm 1964) tại Vịnh Bắc Bộ rất lâu, nhiều người trong chúng tôi biết về hoạt động 34A đã kết luận về cơ bản chúng vô giá trị. Phần lớn số điệp viên miền Nam tung ra Bắc hoặc bị bắt hoặc bị tiêu diệt và các vụ tấn công trên biển cũng chỉ như kim châm mà thôi”6.

Nhưng còn quá sớm để rút ra kết luận có tính khẳng định như vậy. Dù sao sự kiện Vịnh Bắc Bộ xảy ra tháng 8-1964 khi 34A mới được thực hiện có sáu tháng. Tuy nhiên, trong cuộc phỏng vấn năm 1998, McNamara lặp lại 34A “chẳng giá trị gì. Đó là một việc ngu ngốc”7. Ông cho rằng lý do duy nhất để tiếp tục các hoạt động này là “chính phủ Nam Việt Nam coi đó là một phương tiện tương đối rẻ tiền để quấy rối miền Bắc, trả đũa sự hỗ trợ của Hà Nội cho Việt Cộng”8.

Bất kể McNamara có sự nghi ngờ như thế nào về 34A tại thời điểm năm 1964, việc làm của ông không phản ánh mối nghi ngờ đó. Ông trở thành người ủng hộ việc Lầu Năm Góc tiếp nhận chiến tranh bí mật từ CIA. Thậm chí, trước khi Johnson ký vào bản kế hoạch 34A thu gọn, cuối năm 1963, McNamara đã chỉ thị đảm bảo mọi nguồn lực cho 34A tại Việt Nam. Năm 1964, trong khi các giới chức cao cấp như Đại sứ Lodge và Đô đốc Sharp thể hiện sự thất vọng về kết quả của 34A, McNamara vẫn tiếp tục thúc đẩy. Sau này, các sĩ quan hành động của SACSA nhớ lại, vào năm 1964 McNamara luôn tỏ ra hậu thuẫn mạnh mẽ việc thực hiện 34A. Krulak, Hilsman, Colby và Rostow cũng nhớ về McNamara như là người ủng hộ chiến tranh bí mật tại thời điểm đó.

Phải đến năm 1965, sự quan tâm của McNamara vào 34A bắt đầu phai nhạt. Sĩ quan hành động SACSA Bill Murray là người chứng kiến sự thay đổi này. Sau khi chiến dịch không kích bắt đầu và lực lượng trên bộ của Hoa Kỳ đã tham gia chiến tranh, McNamara không còn quan tâm đến 34A nữa. Murray không còn trình các đề nghị hành động của SOG lên cho McNamara, mà thay vào đó lên cho Cyrus Vance, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng9.

Tuy nhiên, McNamara có khẳng định: “một năm sau, tôi thôi 34A”10 vì nó đã không mang lại kết quả như mong muốn. Ông viết, “khi nhìn lại, đó là mục tiêu tham vọng một cách ngu xuẩn của một hoạt động nhỏ bé - nó hầu như chẳng đạt được gì”11. Ông có lý, những gì được thực hiện năm 1964 chỉ là phiên bản thu nhỏ của 34A - và đúng là “nhỏ bé”. McNamara cũng đúng khi thừa nhận mình đã trông chờ quá nhiều và theo cách quá gấp gáp.

Tuy nhiên, ngay cả khi 72 dạng hoạt động nêu trong bản kế hoạch 34A ban đầu được thực hiện, việc đòi hỏi có ngay kết quả tác động đối với Hà Nội cũng là không tưởng. Hoạt động ngầm không theo kiểu như vậy. Chúng cần thời gian để hình thành và khi đó mới có kết quả. McNamara không nắm được sự tinh tế này. Ông đang nóng lòng và khi không thấy kết quả ngay, ông mất hứng thú về chiến tranh bí mật và tìm cách khác để ép buộc Hà Nội. Nhà Trắng cũng vậy.
___________________________________
1. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, “Nghiên cứu tài liệu của MACVSOG”, phụ lục B, phần “Nhóm nghiên cứu và quan sát của Bộ chỉ huy viện trợ quân sự và Tổng nha kỹ thuật chiến lược: hình thành, tổ chức và phát triển”, tr. 157.
2, 3. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, Sđd, tr.159,158.
4. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, Sđd, tr. 159.
5, 10. Ghi chép của tác giả trong cuộc phỏng vấn McNamara, ngày 30-6-1998.
6, 8. McNamara “Hồi tưởng: Bi kịch và bài học của Việt Nam”, tr.130.
7. Ghi chép của tác giả trong cuộc phỏng vấn với McNamara ngày 30-6- 1998.
9. Phỏng vấn đại úy William Murray, tr.24.
11. McNamara, “Hồi tưởng Bi kịch và bài học của Việt Nam”, tr. 105



kenshin_top
07-05-2008, 21:50
Tác động của sự bối rối đối với hoạt động của SOG

Cách tiếp cận thận trọng của Tổng thống Johnson trong việc thực thi kế hoạch 34A đầu năm 1964 có tác động sâu sắc và lâu dài đối với SOG. Thái độ thận trọng của Johnson đã định ra tiêu chí đánh giá và phạm vi quản lý tất cả hoạt động do lãnh đạo SOG đề nghị. Vì vậy, tư tưởng chỉ đạo trong việc ra quyết định hình thành tại thời điểm này được duy trì trong suốt thời gian tồn tại của SOG. Các đề nghị có nguy cơ bùng nổ chính trị hoặc rủi ro cao hoặc là bị bác bỏ hoặc bị điều chỉnh.

Tác động của chủ trương phê duyệt trên đối với bốn bộ phận nghiệp vụ của SOG: gián điệp - biệt kích, chiến tranh tâm lý, hoạt động trên biển, và hoạt động thám báo chống đường mòn - có thể tìm thấy rất nhiều trong các chương trước. Mỗi khi đề xuất hoạt động mới có tính leo thang và tăng cường độ cuộc chiến tranh bí mật chống Hà Nội, SOG bị rơi vào cuộc đấu tranh giữa các cơ quan và trong cuộc chiến đó SOG thường thua trận. Tiến trình thẩm định cũng ngáng cản SOG. Sự thận trọng và kiềm chế mà Johnson áp đặt tháng 12-1963 có tác động cản trở lâu dài, hạn chế những gì SOG được và không được làm để chống Bắc Việt Nam.

Chẳng hạn, vấn đề gây dựng phong trào chống đối bên trong Bắc Việt Nam. Năm 1963 các tác giả của kế hoạch 34A tin rằng “việc hình thành các nhóm chống đối trong Bắc Việt Nam là yếu tố cơ bản cho thành công của toàn bộ chương trình”1. Vào lúc đó, McNamara hoàn toàn tán thành và thể hiện ý kiến của mình trong công thư gửi Bộ trưởng Ngoại giao Rusk: “người Bắc Việt Nam đã được tận hưởng khá lâu sự miễn trừ hình phạt về vai trò của họ trong hoạt động nổi loạn ở Nam Việt Nam”. Đã đến lúc làm cho họ “chịu sự trả đũa nghiêm khắc về sự duy trì hỗ trợ cho hoạt động nổi loạn”. McNamara gợi ý Rusk về sự cần thiết “gây dựng phong trào giải phóng dân tộc của người Việt Nam, một phong trào chịu trách nhiệm trên danh nghĩa về các hoạt động trả đũa này”2. Hay nói một cách khác, Bộ trưởng Quốc phòng tin là Hoa Kỳ nên gây dựng một tổ chức bạo loạn trong lòng miền Bắc, tương tự như Hà Nội đang thực hiện ở miền Nam.

Tuy nhiên, khi Uỷ ban Krulak cắt tỉa 34A cho phù hợp với chính sách của Johnson là chỉ thực hiện những hoạt động “hứa hẹn mang lại kết quả nhất với rủi ro ít nhất”, ý tưởng về phong trào chống đối bị cắt bỏ3. Tiếp sau sự xem xét của Uỷ ban 303, Bộ Ngoại giao, Quốc phòng và CIA gửi một bức điện chung cho Bộ tư lệnh Thái Bình Dương và Đại sứ quán Mỹ tại Sài Gòn vào ngày 16-1-1964 thông báo việc tổng thống Johnson đã phê duyệt các khuyến nghị của Uỷ ban Krulak. Không có một dòng nào trong bức điện đề cập đến gợi ý của McNamara về “gây dựng phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam” nêu trong công thư gửi Rusk. Cấp Washington từ chối chuẩn y đề nghị về phong trào chống đối”4.

Như đề cập ở phần trước, SOG đã ba lần đề nghị chính quyền Johnson thay đổi chính sách. Tháng 3-1965, SOG xin phép được “tuyển lựa và hỗ trợ các phần tử trong Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nhằm mục đích chống đối, hoạt động du kích và thu thập tình báo”. Khi Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương xem xét đề nghị này, những đoạn đề cập đến “mục đích dài hạn là lật đổ chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đều bị gạch bỏ5. Những câu này đi ngược lại chính sách công khai của chính quyền là không tìm cách lật đổ chế độ Hà Nội.

Mặc dù đã làm rõ như vậy, Bộ Ngoại giao, CIA và Đại sứ quán Mỹ ở Lào cùng hợp sức chống lại đề nghị của SOG khi nó được trình lên Uỷ ban 303. Khả năng được thông qua thật mong manh. Rồi, đại diện của McNamara tại Uỷ ban, thứ trưởng Quốc phòng Cyrus Vance, giáng đòn cuối cùng. Nếu ai đó ở Uỷ ban 303 phản bác đề nghị phát triển phong trào chống đối, người đó chính là Cyrus Vance.

Tuy nhiên, trong vấn đề hành động ngầm, quan điểm của Vance rất mâu thuẫn. Khi là Bộ trưởng Ngoại giao dưới thời Carter, Vance là người chống đối quyết liệt hành động ngầm6. Nhưng vào năm 1965, Vance không phải là người chống đối hăng hái hoạt động ngầm mà ngược lại.

Tuy vậy, có những giới hạn ông không được vượt qua. Theo trung tá Bob Rheault, Vance hầu như ký duyệt mọi đề nghị của SOG có liên quan đến đường mòn Hồ Chí Minh tại Lào. “Thường là rất dễ dàng. Tôi vào văn phòng, giải thích đề nghị cho Vance. Vào lúc đó, tôi đã thu xếp xong xuôi mọi việc... Hội đồng tham mưu trưởng liên quân cũng đã xem xét bản đề nghị. Vì vậy, tôi nhớ là mọi việc khá dễ dàng... Chắc chắn là không có sự phiền toái nào”7.

Tuy nhiên, theo trung tá George Maloney, sĩ quan hành động của SACSA, Vance vạch rõ giới hạn khi xử lý các đề nghị về phong trào chống đối. Khi được hỏi tại sao Uỷ ban 303 bác bỏ cả ba kiến nghị của SOG, ông đáp: “À, bản thân Cyrus Vance là một lý do... ông ấy không dám chấp nhận mạo hiểm. Ông nói lập trường công khai của Mỹ là chúng ta có mặt ở đó để giúp đỡ người Nam Việt Nam. Chúng ta không ở đó để lật đổ người Bắc Việt Nam. Chúng ta không muốn người Nga và người Trung Quốc nghĩ rằng Mỹ sẽ lật đổ người Bắc Việt Nam, và chỉ vài phút sau khi chúng ta bắt đầu vũ trang hoặc gây vấn đề ở đó, họ sẽ biết ngay. Vì vậy ông ấy phản đối đến cùng mọi hình thức chống đối, mọi hình thức hoạt động vũ trang.”8. Khi đến được Uỷ ban 303, vào giữa năm 1965, bản đề nghị thường rơi vào tình trạng im lặng.

Những đề nghị hoạt động khác của SOG nhằm tăng cường chiến tranh bí mật cũng chịu số phận tương tự. Ví dụ như các đề nghị về hoạt động tâm lý chiến của SOG. Trong thời chiến, hoạt động chiến tranh tâm lý nhằm vào nhiều mục đích. Một trong số đó là khuyến khích cá nhân trong lãnh thổ đối phương tiến hành các hoạt động bạo lực và phá hoại chống lại chế độ. Trong khi SOG bị cấm gieo trồng một phong trào chống đối có tổ chức ở miền Bắc, bộ phận tâm lý chiến của SOG cũng bị cấm không được kích động hành vi bạo lực.

Điều này thể hiện rõ trong những giới hạn mà Washington áp đặt cho chiến dịch tâm lý chiến của SOG năm 1964. Mục đích của hoạt động này là nhằm cung cấp thông tin cho dân chúng miền Bắc về chính phủ của họ và cuộc chiến tranh với hy vọng sẽ tạo ra sự mất tin tưởng, bất bình thậm chí chống đối ở dạng nhẹ nhàng nào đó. Nhưng đó là ranh giới cuối cùng mà chiến tranh tâm lý có thể tiến đến. Washington không cho phép SOG khai thác sự bất bình đó. Khuyến khích cá nhân có hành vi bạo lực chống chế độ - giết cán bộ miền Bắc hoặc phá hoại - là không được phép.

Đại tá Albert Brownfield, phó của SACSA từ 1964 - 1966, ghi nhận sự hạn chế này đối với hoạt động tâm lý chiến và nhận xét rằng từ những ngày đầu tiên, SOG không được phép khuyến khích dân chúng miền Bắc có những hành động như vậy chống chính phủ9. Trung tá George Maloney, công tác tại SASSA từ 1967 - 1969, khẳng định các chuyên gia tâm lý chiến của SOG “không được kích động phá hoại. Tôi nhớ rất rõ điều đó”. Hướng dẫn của Washington nói rõ sẽ “không có phá hoại, không có hành động bạo lực công khai của nhân dân miền Bắc chống chế độ Hà Nội.”10.

Không chỉ có các sĩ quan hành động ở SACSA nhận thấy hạn chế này là quá cứng nhắc, mà khi đánh giá hoạt động chiến tranh tâm lý của SOG, nhóm xem xét đặc biệt của Hội đồng tham mưu trưởng liên quân và Bộ tư lệnh Thái Bình Dương đề nghị nên xóa bỏ những giới hạn này nhưng không được chính quyền chấp nhận. Đề nghị đó nằm ngoài ranh giới mà chính quyền Johnson vạch ra. Đối với các chuyên gia tâm lý chiến của SOG, toàn bộ cách tiếp cận này thật mâu thuẫn. Nhưng đó là dạng mâu thuẫn mà Richard Helms - Giám đốc CIA từ 1966 - 1973, vẫn thường gặp khi quan hệ với Nhà Trắng. Ông nhớ các nhà vạch chính sách thường hăng hái trong việc sử dụng hành động ngầm. Tuy nhiên, “khi đưa cho họ những hoạt động cụ thể, họ sẽ nêu ra sự lo ngại, giơ tay lên trời và nói “anh muốn làm gì?”. Các nhà hoạch định chính sách thường tỏ ra cứng rắn cho đến khi họ đối mặt với chi tiết”11.

Cuối cùng, SOG gặp phải sự phản đối cứng rắn ở cấp cao trong chính quyền Johnson khi xin phép được thực hiện hoạt động thám báo bí mật chống đường mòn Hồ Chí Minh. Tại Washington, một liên minh đầy quyền lực hình thành để ngăn SOG vào Lào trong gần hai năm. Ngay cả sau khi được Nhà Trắng cho phép hoạt động qua giới tuyến sang Lào, cuộc đấu tranh giữa các cơ quan về quy mô hoạt động kéo dài cho đến khi SOG giải thể.

Không chỉ những đề nghị hoạt động lớn mới bị bác bỏ trong tiến trình thẩm định liên ngành. Washington còn ngăn cản nhiều hoạt động quy mô nhỏ mà SOG đề nghị, trong đó có nhiều hoạt động nêu trong kế hoạch 34A ban đầu. Ví dụ, các loại hình không kích do các máy bay không số thực hiện phá hoại các mục tiêu dễ dàng ở Bắc Việt Nam. Hoạt động này không được phê chuẩn. Kế hoạch 34A còn kiến nghị thả mìn không nhãn mác xuống tất cả các cảng chính của miền Bắc. Đề nghị này cũng bị bác bỏ - chúng quá mạo hiểm về chính trị đối với chính quyền Johnson.

SOG đề nghị sử dụng tiền giả. Tại sao không tràn ngập Bắc Việt Nam bằng tiền giả? Được thực hiện thích hợp, hành động này sẽ tạo ra cú sốc cho nền kinh tế. CIA đã sản xuất ra tiền giả nhưng chỉ có một số lượng nhỏ được tung ra miền Bắc. Washmgton luôn thận trọng không muốn đi quá xa. Như cựu sếp của SOG, Cavanaugh nhớ lại, đó là “không - không thể được về chính trị”. Tại sao? Theo William Rydell, cựu nhân viên CIA chỉ đạo hoạt động tâm lý chiến năm 1970, đó là vì các quy định quốc tế không cho phép làm điều đó. Chúng tôi không được làm vì sợ dư luận quốc tế làm ầm lên”12.

Một chiến thuật khác nhằm làm mòn mỏi nền kinh tế Bắc Việt Nam là quấy rối các đội thuyền đánh cá. Như Jack Singlaub nhớ lại, bằng việc gây khó khăn ngăn cản không cho ngư dân đi biển, chúng ta không chỉ cắt giảm nguồn cung cấp thực phẩm cho đối phương mà còn làm cho họ không còn khả năng ngụy trang các tàu vận tải bí mật”. Tuy nhiên Singlaub giải thích: ở Washington, người ta “phản đối việc ngăn chặn các đội thuyền đánh cá... họ quyết định như vậy vì họ không công nhận giá trị yếu tố kinh tế trong chiến tranh”13. Chiến tranh kinh tế cũng quá nhậy cảm về chính trị và có thể bị cáo buộc là hành vi vô đạo đức.

Singlaub còn kiến nghị các chiến thuật khác làm Washington hoảng loạn. Một trong số đó đã được nêu ở phần trước là việc làm nhiễm bẩn gạo. Các toán thám báo thường phát hiện ra các kho gạo lớn của quân đội miền Bắc ở Lào. Các toán của SOG không thể mang gạo đi vì số lượng quá lớn. Dùng thuốc nổ cũng chỉ rải gạo ra mà thôi và quân đội miền Bắc lại thu dọn lại. Vì vậy Singlaub đề nghị được sử dụng một chất gây bẩn đặc biệt có tên “Bitrex, một cách làm hư hỏng gạo rất dễ dàng... chỉ việc rải chất này lên, gạo sẽ không sử dụng được nữa”14. Đề nghị này cũng bị bác bỏ, vì theo Singlaub, “Bộ Ngoại giao ngăn cản việc sử dụng Bitrex”. Họ coi hành vi đó sẽ biến Hoa Kỳ thành đối tượng bị Hà Nội tố cáo sử dụng vũ khí hoá học. Singlaub phản bác “số gạo đó chỉ dùng cho quân đội và nếu bị làm hư hỏng sẽ chất thêm gánh nặng cho hệ thống cung cấp”15. Cuối cùng thì SOG cũng được phép sử dụng Bitrex, nhưng đó là sau hàng tháng đấu tranh căng thẳng ở Washington.

Một đề nghị khác của Singlaub bị Bộ Ngoại giao phản đối là việc “sử dụng phi tiêu gây choáng trong các vụ phục kích bắt tù binh”. Một trong những nhiệm vụ của OP35 là bắt sống nhân viên đối phương. Việc sử dụng loại phi tiêu này sẽ giúp công việc đó trở nên đơn giản hơn. Bộ Ngoại giao lại lặp lại sự lo ngại vờ vịt về vũ khí hoá học vì theo cách gọi ngày nay, đó chỉ là loại vũ khí không độc hại. Mục đích của loại vũ khí này là bắt giữ chứ không phải tiêu diệt. Bộ Ngoại giao đã ngăn cản được đề nghị này trong nhiều tháng cho đến khi Hội đồng tham mưu trưởng liên quân gây sức ép họ mới nhượng bộ.

Trong suốt quá trình tồn tại, SOG phải chiến đấu với hai đối thủ ghê gớm: giới lãnh đạo Bắc Việt Nam ở Hà Nội và giới lãnh đạo của Hoa Kỳ ở Washington.
____________________________________
1. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, Nghiên cứu tài liệu của MACVSOG”, “Nhóm nghiên cứu và quan sát của Bộ chỉ huy viện trợ quân sự và Tồng nha kỹ thuật chiến lược: hình thành, tổ chức và phát triển”, phụ lục C, phần “Hoạt động chiến tranh tâm lý, tr.7.
2. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, Nghiên cứu tài liệu của MACVSOG”, phụ lục C, phần “Hoạt dộng của SOG chống Bắc Việt Nam, tr.3.
3. Lo ngại về mức độ gia tăng chiến tranh bí mật chống Bắc Việt Nam đã dẫn chính quyền đến việc giao cho ủy ban đánh giá tình báo quốc gia đánh giá lại 34A. Cụ thể là chính quyền giao cho ủy ban xem xét bản 34A đã được ủy ban Krulak rút gọn. Khi xem xét ủy ban kết luận “những hoạt động này ít khả năng dẫn tới sự gia tăng dính líu của Trung Quốc... hoặc làm cho Liên Xô tin rằng Mỹ đã thay đổi đáng kể chính sách”. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân - “Nghiên cứu tài liệu của MACVSOG”, phụ lục B, phần “nhóm nghiên cứu và quan sát của Bộ chỉ huy viện trợ quân sự và Tổng nha kỹ thuật chiến lược: hình thành, tổ chức và phát triển”, tr. 168.
4, 5. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, “Nghiên cứu tài liệu của MACVSOG”, phụ lục C, phần “Hoạt động chiến tranh tâm lý chiến”, tr.7.
6. Năm 1975, ông nói trước ủy ban điều tra các vấn đề tình báo của Quốc hội là hành động ngầm chỉ được sử dụng khi việc đó “tối cần thiết cho an ninh quốc gia” của Hoa Kỳ và là biện pháp cuối cùng. “Theo tiêu chí này” Vance khẳng định, “số lượng hoạt động ngầm là rất nhỏ”. Quốc hội Hoa Kỳ, các cuộc điều trần trước ủy ban tình báo của Quốc hội. (Washington DC, nhà in chính phủ, 1975) tập 7, tr.54.
7. Phỏng vấn đại tá Robert Rheault, tr.21-22.
8. Phỏng vấn trung tá Geoglge Maloney, tr. 9-10.
9. Phỏng vấn chuẩn tướng Alebert Brownfleld, tr. 10.
10. Phỏng vấn trung tá George Maloney, tr.24, 25.
11. Ghi chép của tác giả trong buổi phỏng vấn Richard Helms, ngày 6-6-1997.
12. Phỏng vấn lịch sử với.Willram Rydel , trong MACVSOCR phỏng vấn lịch sử với các sĩ quan từng phục vụ trong OP39 của SOG”, tr.93.
13. Phỏng vấn lịch sử với thiếu tướng John K.Singlaub, trong MACVSOG: phỏng vấn lịch sử với chỉ huy trưởng của SOG, tr.77.
14, 15. Phỏng vấn lịch sử với thiếu tướng John K.Singlaub, Sđd, tr. 46.



SỰ LẠC QUAN KHÔNG ĐÚNG CHỖ HAY CƠ HỘI BỊ BỎ LỠ? NHÌN LẠI KINH NGHIỆM CỦA SOG

Khi tổng thống Kenedy tuyên bố muốn có du kích quân hoạt động ở Bắc Việt Nam, đó là tính cách can đảm đặc trưng của người đề ra khái niệm “đường biên giới mới” - New Frontier. Nếu Hà Nội có thể tiến hành hoạt động lật đổ ở miền Nam, Kenedy sẽ cho họ nếm mùi như vậy ở miền Bắc. Những lời nói cường điệu như vậy là dấu ấn đặc trưng của chính quyền Kenedy đồng thời phản ánh sự lạc quan không đúng chỗ của tổng thống về những gì hoạt động ngầm có thể làm được.

Khi hồi tưởng lại, những gì xảy ra với SOG cho thấy có logic đằng sau đề nghị của Kenedy. Các quốc gia tham gia chiến tranh không thể để mất ổn định và cho phép hoạt động lật đổ diễn ra ở hậu phương của mình. Tình trạng đó không thể tha thứ được vì trong chiến tranh, sự đoàn kết giữa các nhà lãnh đạo chính trị, chỉ huy quân sự và nhân dân là yếu tố không thể thiếu để chiến thắng. Những gì mà Kenedy nêu ra là có ý nghĩa về chiến lược. Dĩ nhiên, tự nó hoạt động ngầm không thể giành thắng lợi trong chiến tranh. Tuy nhiên nó có thể đóng vai trò quan trọng trong một chiến lược thống nhất. Không rõ Kenedy có nhận ra thực tế chiến lược lớn hơn này không.

Mặc dù ý tưởng rất có ý nghĩa, Kenedy gặp phải một trở lực lớn - chính bộ máy hành chính của ông - trong việc hiện thực hoá luận điểm của tổng thống. Phải cần đến ba năm bộ máy đó mới đưa ra được kế hoạch hoạt động ngầm phù hợp - Kế hoạch 34A. Cuối cùng vào cuối năm 1963, chiến tranh bí mật ở Bắc Việt Nam bắt đầu được mở rộng và Hà Nội bắt đầu cảm nhận được độ nóng. Giữa bối cảnh này, Kenedy bị ám sát.

Sau đó Johnson lên làm tổng thống và Việt Nam là vấn đề số một trong chương trình nghị sự. Xu hướng ban đầu của ông là ngả theo việc sử dụng sức mạnh với Hà Nội. Tuy nhiên gần như ngay lập tức, thực tế chính trị nội bộ bắt đầu chiếm chỗ ưu tiên và Johnson dao động. Ông không chỉ là tổng thống mà còn là ứng cử viên tổng thống của đảng Dân chủ trong cuộc bầu cử 1964.

Điều này làm phức tạp thêm tình hình. Nếu chiến tranh trở nên quá nổi trước mắt dân Mỹ, nó có thể trở thành món nợ chính trị nội bộ của Johnson. Thái độ tự tin nhường chỗ cho sự thận trọng. Quyết định này gây ra tác động ngắn hạn và dài hạn đối với SOG. Trong năm 1964, điều đó có nghĩa SOG không có nhiều việc để làm vì Nhà Trắng cắt giảm 34A. Sự kém thành công của SOG còn gây ra tác động ngoài mong muốn đối với các nhà vạch chính sách, mà quan trọng nhất là McNamara. Nếu SOG không mang lại kết quả, chính quyền tìm cách thức khác để gây sức ép đối với Hà Nội. Đến lượt nó, điều này lại có tác động lâu dài vì SOG không còn người đỡ đầu ở cấp cao nhất tại Washington. Khi tìm cách mở rộng hoạt động để chống Bắc Việt Nam, SOG thấy mình ở thế yếu và bị loại khỏi vòng chiến đấu trong các cuộc tranh cãi liên ngành.

Tuy nhiên, bất chấp bốn năm rụt rè của chính quyền Johnson, các hạn chế do Washington áp đặt, các thất bại của SOG,_và các biện pháp đối phó của đối phương, năm 1968 Hà Nội bắt đầu có biểu hiện lo lắng. Bắc Việt Nam phát động chiến lược phản gián lớn để đối phó. Báo chí, đài phát thanh, và các biện pháp an ninh của Bắc Việt Nam trong năm 1968 cho thấy có sự gia tăng báo động về gián điệp, biệt kích. Tương tự, hoạt động chống phá đường mòn Hồ Chí Minh đã thu hút sự quan tâm của Bắc Việt Nam. Hà Nội biết rằng họ sẽ không thể duy trì chiến tranh ở miền Nam nếu không được sử dụng liên tục con đường ấy do đó Bắc Việt Nam đã áp dụng nhiều biện pháp để bảo đảm an ninh dọc tuyến đường.

Như vậy, Hà Nội không coi nhẹ SOG. Cuộc chiến tranh bí mật chống Bắc Việt Nam bắt đầu có tác động mà Kenedy hình dung năm 1961. Nhưng phải mất bảy năm mới đạt được đến điểm đó và vào đúng lúc chính trị nội bộ Mỹ có diễn biến mới. Sau cuộc tổng tiến công Mậu Thân 1968, cùng với sự tham mưu của nhiều cố vấn cấp cao, Johnson tìm lối thoát khỏi chiến tranh Việt Nam. Trong thời gian còn lại của nhiệm kỳ, ông thúc đẩy đàm phán hoà bình ở Paris. Để có cơ sở bắt đầu đàm phán, Hà Nội khăng khăng đòi hỏi Hoa Kỳ chấm dứt ném bom và các hoạt động chiến tranh khác chống lại Bắc Việt Nam, trong đó có hoạt động của SOG. Vào cuối tháng 10-1968, thấy rằng không còn có lựa chọn nào khác, Johnson chấp nhận điều kiện của Hà Nội.

Năm 1968 là cột mốc quan trọng của SOG. Việc Johnson nhượng bộ điều kiện của miền Bắc đã đặt dấu chấm hết cho các hoạt động của SOG ở miền Bắc. Các hoạt động ngầm bị chấm dứt đúng lúc chúng bắt đầu có tác động mong muốn. Đó là cái giá mà Johnson sẵn sàng trả để thuyết phục Hà Nội khởi động đàm phán. Hoạt động chống phá đường mòn cũng chịu tác động trong năm 1968 vì các biện pháp đối phó của Hà Nội bắt đầu gây tổn thất cho các toán thám báo. Vào cuối năm, công tác bảo vệ của quân đội miền Bắc, nhất là tại Lào, trở nên rất hiệu quả. Mặc dù bộ phận này, OP35, của SOG vẫn tiếp tục hoạt động cho đến khi bị giải thể, cơ hội sử dụng hoạt động ngầm một cách chiến lược đã qua đi cùng với sự thay đổi đột ngột trong chính sách Việt Nam của chính quyền Johnson.

Mặc dù Nixon tiếp tục các hoạt động của SOG chống phá đường mòn Hồ Chí Minh đến tận năm 1972, các tài liệu được giải mật cho thấy chính quyền Nixon không có ý định tái khởi động các hoạt động ngầm chống miền Bắc đã bị Johnson đóng cửa năm 1968. Hãy nhớ lại những gì Nixon nói với một trợ lý cao cấp năm 1969: “Tôi sẽ chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Một cách nhanh chóng”1. Hoạt động ngầm trong lòng Bắc Việt Nam không nằm trong tính toán đó của Nixon

No comments:

Post a Comment